Thành Long bị 50 người cầm dao bao vây, chỉ có người này sẵn sàng ứng cứu, dễ hiểu vì sao ông hoàng phim võ thuật tôn xưng làm 'anh lớn' cả đời 11:24 09/10/2021
Y cuộn nhuyễn tiên lại trao trả cho Quá Ngạn Chi. Quá Ngạn Chi mặt đỏ gay, cầm cũng dở mà không cầm thì cũng không được, chợt nghĩ ngay: "Hôm nay chuyện báo thù mới là chuyện lớn, phải nén cái nhục nhất thời để có binh khí cầm trong tay". Y nghĩ thế bèn đưa tay cầm lấy.
Tất nhiên, bạn nên chọn cấu hình thoải mái và trực quan nhất cho mình. Nếu bạn có tay cầm Sony DualShock 4 hoặc PlayStation 5 DualSense, bạn có thể cấu hình touchpad của tay cầm để hoạt động như một con chuột. B1: Quay lại "General Controller Settings" giống như bài viết đã hướng dẫn ở trên.
Vào thời điểm trên, khi cô gái vừa tan sở, một người đàn ông được cho là bố của cô đi xe máy đến đón. Khi 2 bố con chuẩn bị ra về thì một thanh niên đến nói chuyện. Nam thanh niên là người yêu của cô gái. Theo một số cư dân mạng, cô gai vì hết tình cảm nên đã
Độc đáo lễ cấp sắc dân tộc Tày ở Phúc Sơn. Thứ ba, ngày 01-03-2022, 08:27. - Ở Tuyên Quang, lễ cấp sắc ở mỗi dân tộc thiểu số có hình thức và ý nghĩa khác nhau. Đối với dân tộc Dao cấp sắc là để người con trai trưởng thành và cấp sắc để làm thầy cúng. Đối
BỘ 5 DAO LÀM BẾP MẠ TITAN CAO CẤP SUPER CHEF. Giúp bề mặt lưỡi dao thêm rắn chắc, bền lâu hơn. - Lưỡi dao phủ Titan không gỉ sét, không bị oxy hóa hay ăn mòn. - Bề mặt Titan của dao giúp lưỡi dao chống dính trong quá trình sử dụng. - Vẻ ngoài màu vàng đồng sang trọng
iVEa. Những bài ca dao - tục ngữ về "con dao" Em tiếc con dao bé mà lại sắc thay Em tiếc con dao bé mà lại sắc thay Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm Em trái nhân duyên, em chẳng được cầm Để cho người khác được cầm dao loan Được như hoa huệ, hoa lan Thì em cũng chẳng phàn nàn làm chi Được như hoa cúc hoa quỳ Thì em cũng bõ một thì chơi hoa Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Dị bản Thịt nạc dao phay, xương cẳng rìu búa Dao sắc đến đâu bỏ hoài cũng rỉ Dao sắc đến đâu bỏ hoài cũng rỉ Con dao cái kéo ai cầm Con dao cái kéo ai cầm Em xin cắt nốt một vòng chàng ra Những lời chàng nói với ta Ngọt ngào đầu lưỡi cùng ta thề bồi Cho nên thiếp chẳng nghe ai Để không mang tiếng mang tai với chàng Bây giờ nhìn mặt sao đang Thiếp nhìn mặt chàng, hổ lắm chàng ơi Dang tay mà hứng nước trời Rửa sao cho sạch những lời khi xưa Dao có mài có sắc Dao có mài có sắc Người có học có khôn Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô Dao thử trầu héo, Kéo thử lụa sô Ngó ra Phú Quốc, ngó lại Côn Nôn Ngó ra Phú Quốc, ngó lại Côn Nôn Gió rao rao sóng bủa hết hồn Bền gan sắc đá trừ phồn tà gian Hai ta đang nhớ đang thương Hai ta đang nhớ đang thương, Ai về phân quế, rẽ hương cho đành. Hai ta đang nối dây dài, Ai cầm dao sắc cắt hai dây lìa! Chơi cho trứng chọi đá tan Chơi cho trứng chọi đá tan, Trăm hồ nghìn hải phá tàn rừng xanh. Người như huê nở trên cành, Em như con bướm lượn vành trên hoa. Bây giờ anh lấy người ta, Như dao cắt ruột em ra làm mười. Con dao hai lưỡi Con dao hai lưỡi Cầm dao đằng lưỡi Cầm dao đằng lưỡi Tay cầm cái kéo con dao Tay cầm cái kéo con dao Chọc trời vạch đất lấy nhau phen này Tay cầm con dao Tay cầm con dao Làm sao cho sắc Để mà dễ cắt Để mà dễ chặt Chặt lấy củi cành Chạy lên rừng xanh Chạy quanh sườn núi Một mình thui thủi Chặt cây, chặt củi Tìm chốn ta ngồi Đỗi mát thảnh thơi Kìa một đàn chim Ở đâu bay đến Ở đâu bay lại Con đang cắn trái Con đang tha mồi Qua lối nọ nó ăn Cái con hươu kia Mày đang ăn lộc Lộc vả, lộc sung Mày trông thấy tớ Mày đừng có sợ Tớ không đuổi mày Mày quay đi mất Gươm hai lưỡi, miệng trăm hình Gươm hai lưỡi, miệng trăm hình Dị bản Dao hai lưỡi, miệng trăm hình Chén tình là chén say sưa Chén tình là chén say sưa Nón tình em đội nắng mưa trên đầu Lược tình em chải trên đầu Gương tình soi mặt làu làu sáng trong Ngồi buồn nghĩ đến hình dong Con dao lá trúc cắt lòng đôi ta Duyên đôi ta thề nguyền từ trước Biết bao giờ ta được cùng nhau? Tương tư mắc phải mối sầu Đây em cũng giữ lấy màu đợi anh. Con dao vàng rọc lá trầu vàng Con dao vàng rọc lá trầu vàng Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa Dị bản Dao cau rọc lá trầu vàng Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa Loan Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng đèn loan, phòng loan... Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tiếc lục tham hồng là ai Truyện Kiều Dao phay Dao có lưỡi mỏng, bằng và to bản, dùng để băm, thái. Dao phay dùng trong bếp Dao bầu Loại dao to, mũi nhọn, phần giữa phình ra, thường dùng để chọc tiết lợn, trâu bò. Dao bầu Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Tùy loại thịt mà dùng loại dao thích hợp để thái. Sô Một loại vải dệt thưa, thường dùng để may màn hoặc may tang phục. Phú Quốc Được mệnh danh là đảo Ngọc, hòn đảo lớn nhất nước ta, thuộc huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Phú Quốc có nhiều bãi biển rất đẹp, thu hút nhiều khách du lịch. Nơi đây còn nổi tiếng với đặc sản hồ tiêu có vị cay nồng rất riêng. Bãi biển Phú Quốc Côn Sơn Cũng gọi là Côn Lôn hoặc Côn Nôn, tên hòn đảo lớn nhất thuộc quần đảo Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Tại đây từ thời Pháp thuộc đã có nhà tù Côn Đảo để giam giữ tù chính trị, khét tiếng dã man và tàn bạo. Dưới chế độ nhà tù Côn Đảo, khoảng người Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã chết và được chôn cất tại Nghĩa trang Hàng Dương. Tượng người tù tại Côn Đảo Phồn Bè lũ, bọn cũng như phường. Quế Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý Quế chi trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ. Thu hoạch và phơi quế Hải hồ Biển và hồ, chỉ chí khí rộng lớn người con trai trong xã hội phong kiến. Lòng tôi phơi phới quên thương tiếc Đưa tiễn anh ra chốn hải hồ Giây phút chạnh lòng - Thế Lữ Huê Hoa phương ngữ Trung và Nam Bộ. Gọi như thế do kiêng húy tên của bà Hồ Thị Hoa, chính phi của hoàng tử Đảm về sau là vua Minh Mạng. Lộc Chồi lá non của cây. Vì chữ này đồng âm với "lộc" trong "phước lộc," "tài lộc," nghĩa là những điều tốt lành do trời ban cho, nên ở nước ta có phong tục hái lộc đầu năm để cầu may mắn, hạnh phúc cả năm. Vả Cây cùng họ với sung, lá to, quả thực ra là hoa lớn hơn quả sung, ăn được. Quả vả Sung Một loại cây gặp nhiều trên các vùng quê Việt Nam. Thân cây sần sùi, quả mọc thành chùm. Quả sung ăn được, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, ngoài ra còn dùng trong một số bài thuốc dân gian. Cây và quả sung Có bản chép câu cuối này thành Mày qua lối nọ làm chi? Dao lá trúc Dao sắc bén và mỏng như lá trúc. Trầu Còn gọi là trầu không, một loại dây leo dùng làm gia vị hoặc làm thuốc. Lá trầu được nhai cùng với vôi tôi hay vôi sống và quả cau, tạo nên một miếng trầu. Ở nước ta có hai loại trầu chính là trầu mỡ và trầu quế. Lá trầu mỡ to bản, dễ trồng. Trầu quế có vị cay, lá nhỏ được ưa chuộng hơn trong tục ăn trầu. Người xưa có phong tục mời ăn trầu khi gặp nhau. Trầu cau tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, vợ chồng, nên là một lễ vật không thể thiếu trong các dịp cưới hỏi. Lá trầu không Một miếng trầu Nghe nghệ sĩ nhân dân Thu Hiền hát bài Hoa cau vườn trầu. Dao cau Thứ dao nhỏ và sắc, dùng để bổ cau. Dao cau
Tay cầm con dao làm sao cho sắc Để mà dễ cắt, để mà dễ chặt Chặt lấy củi cành, chặt lấy cành cây Chạy lên rừng xanh, chạy quanh sườn núi Một mình thui thủi, chặt cây, chặt củi! Tìm chốn ta ngồi, đỗi mát thảnh thơi Kìa một đàn chim ở đâu bay đến Ở đâu bay lại, con đang cắn trái Con đang tha mồi, nó ăn nó rỉa Cái con hươu kia mày đang ăn lộc Lộc vả, lộc sung, mầy trông thấy tớ Mày đừng có sợ, tớ không đuổi mầy Mày quay đi mất…
Ăn sung ngồi gốc cây sung Ăn sung ngồi gốc cây sung Ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành Cùng thể loại Bài thơ thuốc lào Người Việt Nam phải lấy thuốc lào làm quốc tuý Còn thú vị nào hơn thú vị yên vân! Từ vua, quan, đến hạng bình dân, Ai là chẳng bạn thân với điếu Từ ông thừa, trở lên cụ thiếu, Đi ngoài đường, phi điếu bất thành quan. Ngồi công đường, vin xe trúc nghênh ngang, Hút mồi thuốc, óc nhà quan thêm sáng suốt. Nhà thi sĩ gọt câu văn cho chuốt, Tất phải nhờ điếu thuốc gọi hồn thơ. Lại những khi óc mỏi, mắt mờ, Nhờ điếu thuốc mới có cơ tỉnh tớm Dân thuyền thợ thức khuya, dậy sớm, Phải cần dùng điếu đóm làm vui. Khi nhọc nhằn lau trán đẫm mồ hôi, Vớ lấy điếu, kéo một hơi thời cũng khoái. Dân cày cấy mưa dầm, nắng dãi, Bạn tâm giao với cái điếu cày. Lúc nghỉ ngơi, ngồi dưới bóng cây, Rít mồi thuốc, say ngây say ngất. Rồi ngả lưng trên đám cỏ tươi xanh ngắt, Dễ thiu thiu một giấc êm đềm. Bạn nhà binh canh gác thâu đêm, Nhờ điếu thuốc mới khỏi lim dim ngủ gật. Nội các thức say sưa nghiện ngập, Ngẫm mà coi, thú nhất thuốc lào. Nghiện thuốc lào là cái nghiện thanh tao, Chẳng hại tiền của, mà chẳng hao sĩ diện. Chốn phòng khách, anh em khi hội kiến, Có thuốc lào câu chuyện mới thêm duyên. Khi lòng ta tư lự không yên, Hút mồi thuốc cũng giải phiền đôi chút. Nghe tiếng điếu kêu giòn, nhìn khói bay nghi ngút, Nỗi lo buồn theo khói vút thăng thiên. Cái điếu cùng ta là bạn chí hiền, Từ thiên cổ tơ duyên chặt kết. Cũng có kẻ muốn dứt tình khăng khít, Vùi điếu đi cho hết đa mang. Nhưng nỗi nhớ nhung bứt rứt tấm gan vàng, Chút nghĩa cũ lại đa mang chi tận tuỵ. Cho nên bảo điếu thuốc lào là quốc tuý, Thật là lời chí lý không ngoa. Thuốc lào, ta hút điếu ta, Điếu ta thọ với sơn hà muôn năm… Dù anh văn hoá lớp mười Dù anh văn hoá lớp mười Anh chưa ra trận, em thời không yêu Dù anh sắc sảo, mỹ miều Nếu không ra trận, không yêu làm chồng Dị bản Dù em nhan sắc tuyệt vời Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu Dù em duyên dáng, mỹ miều Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào Thủ đô xa tự năm nào Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên Nay mai chiến thắng trăm miền Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về. Thái Bình có chú Phạm Tuân Thái Bình có chú Phạm Tuân Bay vào vũ trụ một tuần về ngay Dị bản Hoan hô đồng chí Phạm Tuân Bay vào vũ trũ một tuần về ngay Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò con gái Học trò đi mò con gái Thầy ở nhà xách dái chạy theo Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Học trò đi mò cá sặc Học trò đi mò cá sặc Thầy ở nhà cắt cặc nấu chua Học trò đi vùa bánh cúng Học trò đi vùa bánh cúng Thầy ở nhà xách thúng chạy theo Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ Mã tà có chú hay quơ hay quào Giận ai gươm chúng phao vào Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi Một đêm chẳng biết mấy chồng Một đêm chẳng biết mấy chồng Chà Và, Ma Ní cũng đồng “lội” qua Ngày thì hớn hở vào ra Ai xa xem thấy chị Ba ngoắt vào Cu cờm cu ngói cu xanh Cu cờm cu ngói cu xanh Cồ cồ xiêm, cồ cồ ta Ba nanh chuối sứ, ba nanh chuối già Có cùng từ khóa Kìa ai đi hái hoa sung Kìa ai đi hái hoa sung Trong làng lắm kẻ anh hùng, thuyền quyên Ai về Đồng Tháp mà xem Ai về Đồng Tháp mà xem Bông sen, bông súng nở chen lúa vàng Ba cô gánh nước tưới sung Ba cô gánh nước tưới sung Tưới sung sung héo, tưới tùng tùng khô Ăn sung trả ngái Ăn sung trả ngái Ăn quả vả trả quả sung Ăn quả vả trả quả sung Hoa ơi hoa nở làm chi Hoa ơi hoa nở làm chi Hoa nở lỡ thì, lại gặp mùa đông Chồng lớn, vợ bé đã xong Chồng bé, vợ lớn trong lòng đắng cay Dăm ba thước lụa cầm tay Đã toan tự vẫn ở đây không về Đẹp lòng ông cậu bà dì Ông bà chú bác ăn gì cho ngon Đắng này xem tựa bồ hòn Chát này xem tựa sung non ngậm vào Con cò đậu cọc cầu ao Con cò đậu cọc cầu ao Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua Nhạn đậu cành sung, giương cung bắn nhạn Nhạn đậu cành sung, giương cung bắn nhạn Con nhạn lụy rồi biết làm bạn với ai? Phải duyên thì dính như sung Phải duyên thì dính như sung Chàng hôi như cú cũng chung một giường Không phải duyên dù ngọt như bát chè đường Chàng thơm như quế cũng nhường chàng ra Dị bản Phải duyên, nó sánh như nhựa sung Chàng hôi như cú, em cũng nằm chung một giường Trái duyên, chàng ngọt như bát nước đường Chàng thơm như quế, em cũng tìm đường em ra! Tay cầm con dao Tay cầm con dao Làm sao cho sắc Để mà dễ cắt Để mà dễ chặt Chặt lấy củi cành Chạy lên rừng xanh Chạy quanh sườn núi Một mình thui thủi Chặt cây, chặt củi Tìm chốn ta ngồi Đỗi mát thảnh thơi Kìa một đàn chim Ở đâu bay đến Ở đâu bay lại Con đang cắn trái Con đang tha mồi Qua lối nọ nó ăn Cái con hươu kia Mày đang ăn lộc Lộc vả, lộc sung Mày trông thấy tớ Mày đừng có sợ Tớ không đuổi mày Mày quay đi mất Sung Một loại cây gặp nhiều trên các vùng quê Việt Nam. Thân cây sần sùi, quả mọc thành chùm. Quả sung ăn được, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, ngoài ra còn dùng trong một số bài thuốc dân gian. Cây và quả sung Tứ tung ngũ hoành Nghĩa đen là bốn phương dọc, năm phương ngang. Chỉ khắp bốn phía. Vừa ăn của người ta, lại vừa phá hoại của người ta, tức là việc làm không biết điều, không biết phải trái. Thuốc lào Theo học giả Đào Duy Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi như thế. Sách Vân Đài loại ngữ và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây thuốc lào là tương tư thảo cỏ nhớ thương, vì người nghiện thuốc lào mà hai, ba ngày không được hút thì trong người luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu, trong đầu luôn luôn nghĩ đến một hơi thuốc, giống như nhớ người yêu lâu ngày không gặp. Thời xưa, ngoài "miếng trầu là đầu câu chuyện," thuốc lào cũng được đem ra để mời khách. Hút thuốc lào cũng gọi là ăn thuốc lào cần có công cụ riêng gọi là điếu. Thuốc lào thường được đóng thành bánh để lưu trữ, gọi là bánh thuốc lào. Hút thuốc lào bằng ống điếu Quốc túy Cái đặc sắc về tinh thần hoặc vật chất của một dân tộc. Yên vân Khói yên mây vân. Thừa Một chức vụ nhỏ trong các nha phủ dưới thời phong kiến. Phi điếu bất thành quan Không có điếu cày không thể thành quan. Đa mang Tự vương vấn vào nhiều tình cảm để rồi phải đeo đuổi, vấn vương, dằn vặt không dứt ra được. Thôi em chả dám đa mang nữa Chẳng buộc vào chân sợi chỉ hồng Xuân tha hương - Nguyễn Bính Sơn hà Núi sông từ Hán Việt. Từ cũ, nghĩa rộng dùng để chỉ đất nước. Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên phận định tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư Lý Thường Kiệt Dịch thơ Sông núi nước Nam vua Nam ở Rành rành định phận tại sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời. Hệ giáo dục phổ thông miền Bắc từ năm 1956 đến năm 1985 chia làm ba cấp cấp I bốn năm, cấp II và cấp III mỗi cấp ba năm, tổng cộng là mười năm. Giôn-xơn Lyndon Baines Johnson, tổng thống thứ 36 của Mỹ, nắm giữ hai nhiệm kì từ năm 1963 đến năm 1969. Ông này chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà tiêu biểu là việc triển khai quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Tổng thống Mỹ Johnson Trường Sơn, Lào, Thủ Đô, Tam Đảo, Điện Biên đều là tên của các nhãn hoặc loại thuốc lá phổ biến ở miền Bắc vào những năm 1960-1970. Thuốc lá Điện Biên Thái Bình Địa danh nay là một tỉnh ven biển ở đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 110 km. Phần đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay trước đây thuộc về trấn Sơn Nam. Tới năm Thành Thái thứ hai 1890 tỉnh Thái Bình được thành lập. Tỉnh có nhiều khu du lịch và danh lam thắng cảnh nổi tiếng như bãi biển Đồng Châu, cồn Vành, chùa Keo... Các ngành nghề truyền thống như chạm bạc, làm chiếu ở đây cũng khá phát triển. Ngoài ra, Thái Bình còn được mệnh danh là Quê Lúa. Bãi biển Đồng Châu Cá sặc Một loại cá đồng, có rất nhiều ở vùng Tây Nam Bộ vào mùa nước nổi. Người dân Nam Bộ thường đánh bắt cá sặc để làm khô cá, mắm sặc, hoặc nấu thành nhiều món ăn ngon như gỏi, cháo, canh chua bông súng... Khô cá sặc Vùa Gom góp hết về phía mình. Từ này ở miền Trung và miền Nam được phát âm thành dùa. Mã tà Lính cảnh sát thời thuộc địa. Nguồn gốc của từ này đến nay vẫn chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng từ này có gốc từ tiếng Mã Lai là mata-mata, có nghĩa là "cảnh sát," lại có người cho rằng xuất xứ từ này là matraque, tiếng Pháp nghĩa là cái dùi cui. Chà Và Việt hóa từ âm chữ Java, chỉ đảo Java ở Indonesia. Nhưng do từ xưa, người Việt chưa phân biệt rõ về địa lý và nhân chủng của khu vực biển đảo phía nam nên dùng từ "người Chà Và" để gọi chung những người có nguồn gốc từ Ấn Độ, Malaysia, Indonesia di cư đến Việt Nam. Ma Ní Còn gọi Ma Ni, tức người từ Manille thủ đô Philippines, xưa ta gọi là Phi Luật Tân, Lữ Tống, trước làm lính thuộc địa của Tây Ban Nha, được Pháp thuê trong thời kì đô hộ nước ta. Theo bài Tính chất phản kháng trong thơ văn bình dân Nam-kỳ thời Pháp thuộc của Long Điền "Cồ cồ" tức coco là trái dừa, "ba nanh" tức banane là trái chuối. Quần chúng đã kết hợp tài tình hai thứ tiếng để chế giễu bọn bồi bếp, bọn ăn học chẳng ra gì nhưng lại được thực dân trọng dụng. Thuyền quyên Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu Thiền quyên 嬋娟 tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng Truyện Kiều Đồng Tháp Một tỉnh nằm ở miền Tây Nam Bộ, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đồng Tháp nằm ở cửa ngõ của sông Tiền, có đường biên giới giáp với Campuchia, nổi tiếng với những đầm sen, bàu sen... Ngó và hạt sen là những đặc sản của vùng này. Đầm sen Đồng Tháp Tùng Cây thuộc họ thông, thân và tán có dáng đẹp. Tùng có rất nhiều loại, có loại cao lớn, cũng có loại làm cảnh nhỏ. Theo quan điểm Nho giáo, cây tùng thường được ví với lòng kiên trinh, người quân tử. Loại tùng bách mọc trên núi Ngái Một loại cây thuộc họ dâu tằm, có tên khác là sung ngái, dã vô hoa. Theo kinh nghiệm dân gian, tất cả các bộ phận của cây ngái đều có tác dụng chữa bệnh. Cây ngái Ăn sung trả ngái Quả sung và quả ngái nhìn tương tự nhau, nhưng quả sung thì ăn được mà quả ngái thì không ăn được. Ăn quả sung mà lại trả quả ngái thì chẳng những là không biết ơn mà còn là đánh lừa người làm ơn cho mình. Câu này chê những người bất nhân, lấy oán trả ơn. Vả Cây cùng họ với sung, lá to, quả thực ra là hoa lớn hơn quả sung, ăn được. Quả vả Tự vẫn Tự tử bằng cách đâm vào cổ. Có khi nói thành tự vận. Bồ hòn Cây to cùng họ với vải, nhãn, quả tròn, khi chín thì thịt quả mềm như mạch nha. Quả bồ hòn có vị rất đắng, có thể dùng để giặt thay xà phòng. Quả bồ hòn Cò Một loài chim rất quen thuộc với đồng quê Việt Nam. Cò có bộ lông màu trắng, sống thành đàn ở vùng đất ngập nước ngọt như hồ ao, kênh mương, sông, bãi bùn ngập nước, ruộng lúa... Thức ăn chủ yếu là các loại ốc, các động vật thuỷ sinh như ếch, nhái, cua và côn trùng lớn. Hình ảnh con cò thường được đưa vào ca dao dân ca làm biểu tượng cho người nông dân lam lũ cực khổ. “Con cò bay la Con cò bay lả Con cò Cổng Phủ, Con cò Đồng Đăng…” Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn, Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ. Con cò - Chế Lan Viên Cò Đào Loại cây mọc nhiều ở vùng rừng núi phía Bắc, cũng được trồng để lấy quả hay hoa. Hoa đào nở vào mùa xuân, là biểu tượng của mùa xuân và ngày Tết ở miền Bắc. Quả đào vị ngọt hoặc chua, mùi thơm, vỏ quả phủ một lớp lông mịn. Đào xuất hiện rất nhiều trong văn học cổ Trung Quốc và các nước đồng văn. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh đào, lựu, mận, mơ... thường được dùng với tính ước lệ để chỉ đôi lứa yêu nhau. Quả đào Nhạn Vốn nghĩa là con ngỗng trời. Theo Thiều Chửu Chim nhạn, mùa thu lại, mùa xuân đi, cho nên gọi là hậu điểu 候鳥 chim mùa. Chim nhạn bay có thứ tự, nên anh em gọi là nhạn tự 雁序. Có khi viết là nhạn 鴈. Ta gọi là con chim mòng. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của cũng chép “Nhạn Thứ chim giống con ngỗng.” Trong văn học cổ ta thường bắt gặp những cụm từ "nhạn kêu sương," "tin nhạn." Hiện nay từ này thường được dùng để chỉ chim én. Cú Một loài chim ăn thịt, thường kiếm mồi vào ban đêm, có mắt lớn ở phía trước đầu. Người xưa xem cú là loài vật xấu xa, tượng trưng cho những người hoặc việc xấu, việc xui xẻo. Cú mèo Quế Một loại cây rừng, lá và vỏ có tinh dầu thơm. Vỏ quế ăn có vị cay, là một vị thuốc quý Quế chi trong các bài thuốc Đông y. Trong văn học cổ, cây quế thường tượng trưng cho sự thanh cao, đẹp đẽ. Thu hoạch và phơi quế Lộc Chồi lá non của cây. Vì chữ này đồng âm với "lộc" trong "phước lộc," "tài lộc," nghĩa là những điều tốt lành do trời ban cho, nên ở nước ta có phong tục hái lộc đầu năm để cầu may mắn, hạnh phúc cả năm. Có bản chép câu cuối này thành Mày qua lối nọ làm chi?
Tay cầm con dao Tay cầm con dao Làm sao cho sắc Để mà dễ cắt Để mà dễ chặt Chặt lấy củi cành Chạy lên rừng xanh Chạy quanh sườn núi Một mình thui thủi Chặt cây, chặt củi Tìm chốn ta ngồi Đỗi mát thảnh thơi Kìa một đàn chim Ở đâu bay đến Ở đâu bay lại Con đang cắn trái Con đang tha mồi Qua lối nọ nó ăn Cái con hươu kia Mày đang ăn lộc Lộc vả, lộc sung Mày trông thấy tớ Mày đừng có sợ Tớ không đuổi mày Mày quay đi mất Cùng thể loại Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Chồng chài, vợ lưới, con câu Chồng chài, vợ lưới, con câu, Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà. Ví dù theo lái xuống tàu Ví dù theo lái xuống tàu Thì em mới biết cá gầu có gai Con bơn, con nhệch là hai Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang Kể rằng cá đuối bơi ngang Cái đuôi có điện ra đàng làm cao Lại tăm con cá đuối sao Nước lên cả nước gặp ngay cá ngần Biển sâu lại có chướng ngầm Cá ăn nó lượn ba lần nó ra Cá Ông thì ở bể xa Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên Lần đầu xuống bến xuống thuyền Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông Ví dù em có sang sông Thì em mới biết cá Ông chầu đền Kể từ mặt biển kể lên Chim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời Cá he ngậm nước bao giờ Mà em dám nói đổ ngờ cá he Kể cả con cá mòi he Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vào Kể từ con cá chuồn hoa Nó nhảy một cái qua ba lần thuyền Kể từ con cá đối đen Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơi Dưới bể có cả đồi mồi Có con lợn bể nó bơi cả ngày Kể cả con cá mó tày Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừng Kể cả con mực, con nhưng Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông Con mực nhuộm đục cả luồng Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng Cá mập bơi lội vẫy vùng Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông Kể từ cá mú, cá song Cá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai Cá sông kể cũng rất tài Cá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn Trở giời nó mới lượn lên Ví dù em ở đồng trên gần nguồn Thì em mới biết nguồn cơn Thì em mới biết cá rô, trê đồng Bây giờ em chưa có chồng Làm gì em biết thuộc lòng cá chim? Em đây chính thực anh hùng Em đây chính thực anh hùng Em đi chắn lưới ở vùng Vạn Hoa Chắn từ Cái Rồng mà ra Chắn đến Xà Kẹp chắn qua Bãi Dài Cái Bàn chắn từ Hòn Hai Chắn sang Cây Khế, Cái Đài hai hôm Vụng Đài thấp nước bồn chồn Cửa Mô sóng vỗ đầu cồn lao xao Rồi ra ta sẽ chèo vào Lò Vôi chốn ấy ta vào chắn chơi Sau thì ta sẽ nghỉ ngơi Ta chèo vào phố đậu chơi mấy ngày Chắn quanh cái khúc sông này Chỗ nào thấp nước ta nay làm chuồng Em đây ngỏ thực anh tường Để anh biết thực mọi đường chắn đăng. Lưới anh đánh ở Cửa Mô Lưới anh đánh ở Cửa Mô Bằng gộc, bằng gồ, bằng hốc, bằng hang Con đi học lấy nghề cha Con đi học lấy nghề cha, Một năm đục đá bằng ba năm cày. Ruộng chua mà bón phân lèn Ruộng chua mà bón phân lèn Cũng bằng duyên bạn xe bền duyên tui. Khổ chi khổ lắm bớ trời Khổ chi khổ lắm bớ trời Chính giữa đòn gánh, hai đầu hai ki Gánh phân bón lúa ngày xuân Gánh phân bón lúa ngày xuân Khơi mương, thông nước, chân không bén quần. Thuyền đăng, thuyền lưới, thuyền câu Thuyền đăng, thuyền lưới, thuyền câu Biết thuyền ông ngoại đỗ đâu mà tìm Thuyền đăng, thuyền lưới thuyền chài Biết thuyền ông ngoại buông chài nơi nao Nước lên cho ngập con sào Cho thuyền ông ngoại chèo vào Vụng Đâng Có cùng từ khóa Em tiếc con dao bé mà lại sắc thay Em tiếc con dao bé mà lại sắc thay Chuôi sừng bịt bạc về tay ai cầm Em trái nhân duyên, em chẳng được cầm Để cho người khác được cầm dao loan Được như hoa huệ, hoa lan Thì em cũng chẳng phàn nàn làm chi Được như hoa cúc hoa quỳ Thì em cũng bõ một thì chơi hoa Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Dị bản Thịt nạc dao phay, xương cẳng rìu búa Chó chạy trước hươu Chó chạy trước hươu Dao sắc đến đâu bỏ hoài cũng rỉ Dao sắc đến đâu bỏ hoài cũng rỉ Bài này có từ ngữ và/hoặc nội dung nhạy cảm. Hãy cân nhắc trước khi bấm xem. Nhất cao là rú Hoành Sơn Nhất cao là rú Hoành Sơn Lắm hươu Bàn Độ, to 1ồn chợ Voi Hươu kia trót đã mắc chà Hươu kia trót đã mắc chà Khi vào thì dễ, khi ra hiểm nghèo Con dao cái kéo ai cầm Con dao cái kéo ai cầm Em xin cắt nốt một vòng chàng ra Những lời chàng nói với ta Ngọt ngào đầu lưỡi cùng ta thề bồi Cho nên thiếp chẳng nghe ai Để không mang tiếng mang tai với chàng Bây giờ nhìn mặt sao đang Thiếp nhìn mặt chàng, hổ lắm chàng ơi Dang tay mà hứng nước trời Rửa sao cho sạch những lời khi xưa Dao có mài có sắc Dao có mài có sắc Người có học có khôn Kìa ai đi hái hoa sung Kìa ai đi hái hoa sung Trong làng lắm kẻ anh hùng, thuyền quyên Dao thử trầu héo, kéo thử lụa sô Dao thử trầu héo, Kéo thử lụa sô Lộc Chồi lá non của cây. Vì chữ này đồng âm với "lộc" trong "phước lộc," "tài lộc," nghĩa là những điều tốt lành do trời ban cho, nên ở nước ta có phong tục hái lộc đầu năm để cầu may mắn, hạnh phúc cả năm. Vả Cây cùng họ với sung, lá to, quả thực ra là hoa lớn hơn quả sung, ăn được. Quả vả Sung Một loại cây gặp nhiều trên các vùng quê Việt Nam. Thân cây sần sùi, quả mọc thành chùm. Quả sung ăn được, có thể muối để ăn như muối dưa, cà, ngoài ra còn dùng trong một số bài thuốc dân gian. Cây và quả sung Có bản chép câu cuối này thành Mày qua lối nọ làm chi? Bể Sở, sông Ngô Ở khắp mọi nơi Sở và Ngô là hai nước thời Xuân Thu, Trung Quốc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành Truyện Kiều Ví dầu Nếu mà, nhược bằng từ cổ. Cũng nói là ví dù. Lái Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định lái gỗ, lái trâu... Cá mú Tên chung một họ cá biển cho thịt trắng, dai, ngọt. Có ba loại cá mú chính là cá mú đỏ, cá mú đen, cá mú cọp, trong đó cá mú đỏ là loài cá quý hiếm nhất, hai loại còn lại thì hiện nay đang được nuôi khá nhiều. Tùy theo từng địa phương mà cá mú còn được gọi là cá song, cá gàu gầu, cá mao… Cá mú đỏ Thờn bơn Còn gọi là cá bơn, một loại cá thân dẹp, hai mắt nằm cùng một bên đầu. Vì vị trí hai mắt như vậy nên khi nhìn chính diện có cảm giác miệng bị méo. Cá thờn bơn Cá lịch Có nơi gọi là lệch hoặc nhệch, tên chung của một số loài cá-lươn phổ biến. Cá lịch có hình dạng tương tự con lươn, mình thon dài, da trơn không vảy, đuôi thon nhọn, mắt nhỏ. Tùy vào từng loài khác nhau, cá lịch có thể có vây hoặc không vây, cũng như màu da có thể là màu trơn hoặc có đốm hay có sọc. Các loài cá lịch thường sống ở biển hoặc ở vùng nước lợ cửa sông, nhưng cũng có thể bơi ngược dòng đến sống ở sông ngòi hay ruộng đồng nước ngọt. Vào ban ngày, cá lịch chui rúc trong bùn, cát, đến đêm thì bơi ra kiếm ăn ở tầng đáy nước. Thức ăn của cá lịch là các loài cá hay giáp xác nhỏ. Đối với người Việt Nam, cá lịch là một loài thủy sản bổ dưỡng tương tự như lươn. Cá lịch cu Cá lịch đồng Còng Một loại sinh vật giống cua cáy, sống ở biển hoặc các vùng nước lợ. Còng đào hang dưới cát và có tập tính vê cát thành viên nhỏ để kiếm thức ăn. Ngư dân ở biển hay bắt còng làm thức ăn hằng ngày hoặc làm mắm. Con còng Ghẹ Vùng Bắc Trung Bộ gọi là con vọ vọ, một loại cua biển, vỏ có hoa, càng dài, thịt nhiều và ngọt hơn cua đồng. Con ghẹ Cá đuối Một loài cá biển, cùng họ với cá nhám, thân dẹp hình đĩa, vây ngực rộng, xòe hai bên, đuôi dài. Cá đuối Cá ngần Còn gọi là cá ngân, cá cơm ngần, cá sữa, cá thủy tinh, hay cá bún, một loại cá không xương, nhỏ như con tép, màu trắng hoặc trong suốt, sống trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ. Từ cá ngần có thể chế biến ra nhiều món ngon như canh chua, cá chiên trứng, chả cá ngần… Cá ngần Cá Ông Tên gọi của ngư dân dành cho cá voi. Do cá voi có tập tính nương vào vật lớn như thuyền bè mỗi khi có bão, nên nhiều ngư dân mắc nạn trên biển được cá voi đưa vào bờ mà thoát nạn. Cá voi được ngư dân tôn kính, gọi là cá Ông, lập nhiều đền miếu để thờ. Bộ xương cá Ông trong đền thờ ở vạn Thủy Tú, Phan Thiết Lưỡng long chầu nguyệt Hai con rồng chầu mặt trăng cũng gọi là "rồng chầu mặt nguyệt". Đây là chi tiết phù điêu thường gặp trên các mái đình đền, chùa chiền ở nước ta, mang ý nghĩa tâm linh thuần phục thánh thần. Lưỡng long chầu nguyệt Cá chim Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín. Cá chim Cá thu Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon. Cá thu Cá nhụ Cũng gọi là cá chét, một loại cá biển thân dài, dẹt bên, đầu ngắn, mắt to. Thịt cá dai, ngọt và nhiều chất dinh dưỡng, xương mềm. Cá thường được chiên lên chấm với nước mắm tỏi, ớt ăn kèm rau sống hoặc nấu canh ngót hoặc sốt cà chua, kho cà chua, kho tiêu, kho tộ… Cá nhụ Cá đé Cũng gọi là cá lặc, một loài cá biển thân dài, đầu ngắn, thân màu trắng bạc. Cá đé có thịt thơm ngon hảo hạng, hiếm có khó tìm, được xếp vào “tứ quý ngư” chim, thu, nhụ, đé, bốn loài cá quý của Việt Nam. Cá đé Cá vược Một loại cá sinh trưởng ở nước ngọt, nước lợ và di cư ra vùng nước mặn để đẻ. Ở nước ta, cá vược phân bố dọc bờ biển từ Bắc đến Nam và được đánh giá có giá trị kinh tế cao, đã được thuần hóa để nuôi cả trong điều kiện nước mặn và nước ngọt. Cá vược nuôi Cá he Một loại cá nước ngọt thường gặp ở miền Tây Nam Bộ, họ hàng với cá mè. Cá he có đuôi và vây màu đỏ, vẩy bạc. Thịt cá he ngon, béo nhưng có nhiều xương. Xem thêm Câu cá he. Cá he Cá mòi Một loại cá thuộc họ cá trích, có tập tục bơi thành đàn từ biển ngược lên nguồn vào tháng giêng để đẻ trứng, vì vậy nhân dân ta thường giăng lưới bắt cá mòi ở sông vào dịp này. Cá mòi ngon nhất là trứng cá, và thường được chế biến thành các món nướng, món kho. Cá mòi có hai loại cá mòi lửa và cá mòi he. Cá mòi Cá chuồn Tên một họ cá biển có chung một đặc điểm là có hai vây ngực rất lớn so với cơ thể. Hai vây này như hai cánh lượn, giúp cá chuồn có thể "bay" bằng cách nhảy lên khỏi mặt nước và xòe vây lượn đi, có thể xa đến khoảng 50 mét. Cá chuồn sống ở những vùng biển ấm, thức ăn chủ yếu của chúng là các phiêu sinh vật biển. Ở nước ta, cá chuồn có nhiều ở những vùng biển miền Trung. Cá chuồn có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, kho, nấu bún... Cá chuồn đang bay. Cá đối Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá... Cá đối kho thơm Đồi mồi Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ lược, vòng tay, vòng đeo cổ.... Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi. Con đồi mồi Lợn biển Động vật có vú thuộc bộ bò biển, sống ở biển hoặc cá vùng cửa sông, có thân hình to lớn cá thể trưởng thành nặng khoảng nửa tấn, chuyên ăn các loại thực vật dưới biển. Lợn biển Cá mó Cũng gọi là cá lưỡi mèo hoặc cá vẹt, một loài cá biển có thân hình dẹt, khá mềm, rất nhiều thịt. Thịt của cá mó có hương vị đậm đà, dễ chế biến thành các món kho, chiên hay canh. Cá mó Nhưng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Nhưng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá nhung Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá nhung, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá cúng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá cúng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá hồng Loài cá có thân bầu dục dài dẹt, thân cá có màu hồng, viền lưng cong đều, viền bụng tương đối thẳng. Đầu cá lõm, mõm dài và nhọn, vây lưng dài, có gai cứng khỏe. Đa số các giống cá hồng sống ở biển, trừ một số ít loài sống trong môi trường nước ngọt. Cá hồng biển Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Cá mè Tên chung của một số loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng. Có nhiều loài cá mè, nhưng cá mè trắng và mè hoa là phổ biến hơn cả. Nhân dân ta đánh bắt cá mè để lấy thịt, mỡ và mật cá, vừa để chế biến thức ăn vừa làm thuốc. Cá mè Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Cá rô Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún... Lưu ý Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng. Cá rô đồng kho tộ Cá trê Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi. Cá trê Chắn đăng Giăng đăng ở những vịnh, vũng để đón cá theo con nước xuống. Vạn Hoa Vùng biển thuộc đảo Cái Bầu Kế Bào, nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây cũng có bến cảng và núi cùng tên là Vạn Hoa. Cảng Vạn Hoa Port-Wallut thập niên 1920 Cái Rồng Địa danh nay là thị trấn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đồng thời cũng là tên cảng biển ở đây. Cảng Cái Rồng Xà Kẹp Địa danh nay thuộc xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Bãi Dài Một bãi biển nằm trong khu vực vịnh Bái Tử Long, thuộc địa phận huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay đây là một địa điểm du lịch rất nổi tiếng. Bãi Dài Vân Đồn Cái Bàn Tên một hòn đảo nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Tên chung của hai hòn đảo nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Cây Khế Một hòn đảo nay thuộc địa phận thôn Đông Tiến, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cái Đài Một vùng biển thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Vụng Đài Chuối Một vụng biển nay thuộc địa phận xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cửa Mô Tên một vùng biển nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cồn Đảo nhỏ và thấp. Ở miền Trung và Nam Bộ, cồn còn được gọi là cù lao hoặc bãi giữa, là dải đất hình thành ở giữa các con sông lớn sông cái nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm. Cồn Phụng thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang Lò Vôi Địa danh nay thuộc thôn Đông Thắng, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Đục đá Khai thác đá núi để sản xuất các dụng cụ dân sinh như cầu cống, cối giã gạo, cối xay bột… Đây là nghề phổ biến ở một số làng quê gần các núi đá lèn ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Lèn Núi đá vôi phương ngữ Bắc Trung Bộ. Ki Một loại giỏ đan bằng nan tre tương tự như cần xé thường gặp ở Trung và Nam Bộ, dùng để đựng trái cây, nông sản. Đăng Dụng cụ đánh bắt cá, bao gồm hệ thống cọc và lưới hoặc bện bằng dây bao quanh kín một vùng nước để chặn cá bơi theo dòng. Cái đăng Sào Gậy dài, thường bằng thân tre. Nhân dân ta thường dùng sào để hái trái cây trên cao hoặc đẩy thuyền đi ở vùng nước cạn. Cắm sào Vụng Đâng Một vụng biển nay thuộc địa phận phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long. Loan Theo một số điển tích thì phượng hoàng là tên chung của một loại linh vật loan là con mái, phượng là con trống. Cũng có cách giải nghĩa khác về loan, mô tả loan là một loài chim giống với phượng hoàng. Trong văn thơ cổ, loan và phụng thường được dùng để chỉ đôi vợ chồng hoặc tình cảm vợ chồng đèn loan, phòng loan... Nào người phượng chạ loan chung, Nào người tiếc lục tham hồng là ai Truyện Kiều Dao phay Dao có lưỡi mỏng, bằng và to bản, dùng để băm, thái. Dao phay dùng trong bếp Dao bầu Loại dao to, mũi nhọn, phần giữa phình ra, thường dùng để chọc tiết lợn, trâu bò. Dao bầu Thịt nạc dao phay, thịt mỡ dao bầu Tùy loại thịt mà dùng loại dao thích hợp để thái. Chó chạy trước hươu Người không biết khiêm tốn, không có tài nhưng làm ra vẻ ta đây thông minh, lanh lợi, thích dạy bảo người khác có khả năng hơn mình. Rú Núi, rừng nói chung phương ngữ Trung Bộ. Hoành Sơn Tên một dãy núi ở phía nam tỉnh Hà Tĩnh, phía bắc tỉnh Quảng Bình. Hoành Sơn và sông Gianh là biểu trưng lịch sử, văn hoá, địa lý của tỉnh Quảng Bình. Thế kỷ 17, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói với sứ của chúa Nguyễn Hoàng "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân," nghĩa là "một dải Hoành Sơn có thể dung thân đời đời." Nguyễn Hoàng đã vượt Hoành Sơn vào đến Thuận Hóa và dựng nên nghiệp lớn của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong và nhà Nguyễn sau này. Đèo Ngang thuộc dãy Hoành Sơn Bàn Độ Tên một ngọn núi ở địa phận xã Đỗ Chữ về phía bắc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Núi nằm giáp biển, trên núi có đầm, gọi là đầm Thủy Tiên, tương truyền nước có tiên nữ trong đầm đi ra. Đời Trần, vua Duệ Tông đi đánh Chiêm Thành, khi thuyền qua đây bị sóng gió không tiến được, phải đem người cung nữ là Nguyễn Bích Châu đặt lên cái mâm đồng dâng cho thủy thần, bấy giờ thuyền mới đi được, nên gọi tên là núi Bàn Độ. Chợ Voi Tên cái chợ nay thuộc xã Kỳ Phong, Huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Chà Bẫy thú làm từ cành cây gai. Thuyền quyên Gốc từ chữ thiền quyên. Theo từ điển Thiều Chửu Thiền quyên 嬋娟 tả cái dáng xinh đẹp đáng yêu, cho nên mới gọi con gái là thiền quyên. Trai anh hùng, gái thuyền quyên Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng Truyện Kiều Sô Một loại vải dệt thưa, thường dùng để may màn hoặc may tang phục.
Cách làm dây đeo và tay cầm cuộn cho đồ gốm sứ mà bạn chưa biết đến. Bạn sẽ muốn làm dây đeo và tay cầm cuộn cho nhiều loại bình như cốc, bình đựng, ấm trà, Dưới đây là một cách làm dây đeo và tay cầm cuộn thường được sử dụng trong đồ gốm. Hãy sáng tạo một chút và xem bạn có thể nghĩ ra gì … Dây đeo và tay cầm cuộn Một tay cầm dây đeo đã sẵn sàng để đính kèm, hiển thị phần trên cho phần trên đang được tiến hành. Một tay cầm dây đeo đã sẵn sàng để đính kèm, hiển thị phần trên cho phần trên đang được tiến hành. Cách đơn giản nhất để làm tay cầm từ đất sét là cắt chúng từ một phiến đá . Một cách khác là cuộn ra một cuộn dây cho một tay cầm. Các dây đai hoặc cuộn dây này phải có cùng độ dày với thành chậu mà chúng sẽ được gắn vào. Chúng cũng phải có cùng thân đất sét với nồi. Điều này sẽ tránh các vấn đề có thể xảy ra do sự khác biệt về độ co ngót và hệ số giãn nở . Một cách gọn gàng để làm quai xách trên bánh xe là ném một cái chậu, đảm bảo rằng nó hoàn toàn đồng đều ở tất cả các phía và sau đó lấy một công cụ sắc bén và cắt phần ngọn của chậu theo chiều rộng bạn muốn. Cắt chiếc nhẫn sao cho thật phẳng và bạn sẽ có tay cầm hoàn hảo. Ngoài ra, đối với tay cầm làm từ vật liệu khác phải được gắn vào sau khi nồi đã qua quá trình nung tráng men. Trong quá trình tạo nồi, các vấu phải được làm đủ lớn sau khi co lại để các đầu tay cầm có thể luồn qua được. Các vấu có thể được làm từ phiến, cuộn, hoặc thậm chí được kẹp từ một cục đất sét. Sử dụng chất liệu khác cho tay cầm của bạn là nơi gốm sứ có thể trở nên thú vị. Nếu bạn đang làm giỏ treo hoặc chậu bằng sứ, dây thừng đơn giản có thể trông rất đáng yêu. Bạn cũng có thể sử dụng một dây kim loại dẹt rất mỏng để quấn làm tay cầm tất nhiên là được gắn sau khi nó được đốt cháy. Bạn có thể làm cho ấm trà thú vị hơn nhiều bằng cách sử dụng các tay cầm khác nhau. Liên hệ Trọng Tín Bàt Tràng Địa chỉ 37 Gầm Cầu, Đồng Xuân, Hoàn Kiếm, HN 46 Xóm 1 Giang Cao, Bát Tràng, HN Hotline 0982559529 Zalo 0982559529
tay cầm con dao làm sao cho sắc